VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LONG MẠCH

VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LONG MẠCH

Phong thủy trọng “sinh khí”, kỵ “gió thổi”, quí “dòng nước”. Phong thủy tốt là phải “Tàng phong , tụ khí”, tức sinh khí phải tụ mà không tán, động mà lại tụ và chú trọng đến thời gian, phương vị, địa điểm với quan niệm:

Núi (sơn long) như chồng; nước (thủy long) như vợ;“Phu tòng phú quí”. Long mạch có 2 loại, Long vùng đồi núi và Long ở đồng bằng.

  1. Long mạch vùng sơn cốc (núi non, gò đồi)

Vùng sơn cước thì đá là xương cốt của núi (xương của long – long mạch), đất là thịt của núi (thịt của long), cây cỏ là lông của núi (lông của long).

Vì vậy có núi thì lấy núi để đoán, không có núi thì lấy nước mà đoán.

Núi quí ở to lớn hùng vĩ, nước quí ở uốn lượn quanh co; quanh co thì nước với núi có khí tụ, hùng vĩ thì núi với nước có khí nổi (lộ ra).

Hễ chủ sơn (núi chính) mà nhấp nhô uốn lượn, đỉnh cao đẹp đẽ, chi cước (nhánh) đi liền với thân, thế núi nguy nga là núi phát phước long mạch.

Nếu thế long mà tản mạn yếu ớt, cứng nhắc phù nề, thô, thẳng đuột, nhọn hoắt đều không tốt. Có 5 trường hợp Hung (dữ) là:

– Núi cao nước xiết

– Núi ngắn nước thẳng

– Núi áp sát cắt nước dòng chảy

– Núi lổn nhổn chẳng có hình thể gì mà nước thì chảy nhiều ngả

– Núi lộ mà nước chảy ngược

Có 5 trường hợp khác nữa cũng là Xấu, gồm:

– Nước tù (không có nguồn chảy về)

– Bờ ruộng ngắn nhỏ

– Vũng rãnh cạn khô

– Nổi cồn bãi

– Nước xoáy ngược ào ào do đất dịch chuyển.

Tiếp đến là xem chi sơn (núi nhánh): Chi sơn phải như kho lẫm, như cờ, như trống, phải có quy cách, như thiên mã qui nhân, như hốt ấn văn bút, như rương vàng kiếm báu.

Tác dụng của chi sơn là đưa đón, cung phụng, hộ đỡ, khiến chủ sơn càng oai phong lẫm liệt.

  1. Long mạch bình dương (đồng bằng)

Xem long mạch ở đồng bằng thì khó hơn. Vì long mạch lúc ẩn, lúc hiện có khi chỉ lên vài cm. Lúc lại lặn qua ao, qua sông.

Long cũng có mạch là sinh khí cát tường, cũng có mạch thuộc tử long (không tốt). Long đi đến đâu thì bùn đất sẽ theo đó mà lên xuống.

Có chỗ đất cao lên, gọi là bình chi cao địa, thì rất tốt, nhưng cần có Thanh Long, Bạch Hổ bảo vệ, nếu không thì cũng không thật cát lợi (chỉ nên dựng miếu, đền, không nên dùng cho an táng).

Long bình địa (đồng bằng) tuy khó tìm nhưng khi nhập thủ (đẹp) thì thường tốt hơn ở vùng sơn cước (Long vùng sơn cước thường thô và cường mãnh.

Long nhập thủ có 5 trường hợp sau:

– Trực (thẳng) nhập thủ là long chạy thẳng từ tổ long đến rồi kết huyệt. Cách này khí thế mạnh mẽ, phát phú cực nhanh.

– Hoành (ngang) nhập thủ – Hoành long là hạ xuống bên cạnh mà kết huyệt.

– Hồi (vòng lại) nhập thủ – Hồi long là uốn lượn rồi quay lại tổ long mà kết huyệt.

– Phi (bay) nhập thủ – Phi long là mạch đang ở dưới sâu, lao thẳng lên mà kết tụ ở trên.

– Tiềm (ẩn) nhập thủ – Tiềm long là mạch ở trên sa xuống dưới (ao, biển…) mà kết.

Ngoài ra còn có cách nhập thủ – Xiển Long là long mạch tránh né. Nếu nhập thủ không đẹp thì tất cả đều vô nghĩa.

Xem nhập thủ thì phải biết chữ nào trong tứ cục: Ất – Đinh – Tân – Quí thì xem long nào là sinh vượng Chi địa, rồi cắm đánh dấu chỗ sinh vượng, tránh bát sát (8 long hung), theo phép mà định hướng kết huyệt, rồi dùng la bàn định phương vị.

  1. Long Nhập Thủ

Từ phương Càn nhập thủ mà hình tượng vừa tươi tốt, vừa viên mãn, vừa có sinh khí thì đó là “Chân Long” (mạch thật), phát phú quí.

Nếu nhập thủ tương phản với sinh vượng của tứ cục ắt tử tuyệt.

Phạm bát san khắc chế (bát sát hoàng tuyền – long hung) nhẹ thì giảm phú quí, nặng ắt người chết, của hết.

  1. Phân Định Long Mạch Tốt – Xấu, nguồn nước lành – dữ

Long mạch từ xa đến thì phú quí bền, long mạch ngắn thì phú quí cũng ngắn ngủi.

Long mạch chạy ngang, tối kỵ bị đứt đoạn từ bên trong, vì như thế gia chủ sẽ bị mất hết gia tài, chuốc lấy đủ thứ tai họa.

Dựa vào Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ (ngũ hành) để xem xét được lành, dữ hay vãng lai song hành trong đó:

Can nhiều Chi ít thì tốt 1 nửa,

Chi nhiều Can ít rất xấu (đại hung),

Can trong trẻo vươn xa,

Chi vẩn đục dòng ngắn, cùng song hành (song song) chảy đi thì gọi là hỗn tạp.

Theo phép xem đất (địa lợi) thì bát là cơ sở, trong đó:

Càn – Khôn – Cấn – Tốn là đại thần (bát quái);

Giáp – Bính – Canh – Thân – Nhâm là trung thần (Can);

Ất – Đinh – Tân – Quí là tiểu thần (Can);

Gọi gộp là tam thần.

XÉT THEO ĐỊA CHI

Dần – Thân – Tỵ – Hợi là đại thần (đất phong thần kiếp sát),

Tí – Ngọ – Mão – Dậu là trung thần (đất đào hoa hàm trì),

Thìn – Tuất – Sửu – Mùi là tiểu thần (đất mộ khố khôi cương)

Mà phép xem nước đều kỵ cả 3 loại này. Thủy thần không khắc chế lẫn nhau, thì không đại phát, mà vô họa.

  1. Thuật phong thủy lấy bát quái để luận giải long mạch thì cho rằng:

– Khảm sơn chủ: trung hậu, hiền đức, lương thiện, sống lâu

– Ly sơn chủ: tai họa

– Chấn sơn chủ: sinh nam, nữ

– Tốn sơn chủ: có rể hiền

– Khôn sơn chủ: phụ nữ sống lâu

– Càn sơn chủ: quí nhân sống lâu

– Đoài sơn chủ: đỗ đạt cao

– Cấn sơn chủ: nhân đinh hưng vượng (tức gia quyến được hưởng sau khi mai táng)

Tóm lại. Long có thuận nghịch, long mạch có tốt có xấu. Long phải tụ không được phân tán, long phải dừng lại không được bỏ đi.

Leave Comments

0945071255
0945071255